Những đứa con của nửa đêm
Phan_34
… Một thằng bé mười một tuổi, Padma, biết rất ít về tình hình nội trị Pakistan; nhưng nó có thể thấy, vào cái hôm tháng Mười ấy, rằng một bữa tiệc tối bất thường đang được chuẩn bị. Saleem lên mười một không biết gì về Hiến pháp 1956 và việc nó ngày một bị xói mòn; nhưng cặp mắt cậu đủ sắc sảo để phát hiện những sĩ quan an ninh Quân đội, và quân cảnh, xuất hiện vào buổi chiều và bí mật nấp sau những bụi cây trong vườn. Đấu tranh phe phái và sự kém cỏi về nhiều mặt của Ngài Ghu-lam Mohammed[6] là điều bí ẩn với cậu bé; nhưng cậu thấy rõ dì Emerald đã đeo lên những món nữ trang đẹp nhất của mình. Vở hài kịch bốn-thủ-tướng-trong-hai-năm chưa từng làm cậu khúc khích; song cậu có thể cảm thấy, trong bầu không khí kịch tính bao trùm tòa nhà của Đại tướng, có gì như một hồi kết sắp hạ màn. Chả biết gì về sự nổi lên của đảng Cộng hòa, nhưng cậu vẫn tò mò về danh sách khách mời dự tiệc của Zulfikar; mặc dù cậu đang ở một đất nước nơi những cái tên không gợi lên điều gì – ai là Chaudhuri Muhammad Ali? Hay Suhrawadry? Hay Chundrigar, hay Noon?[7] - sự nặc danh của khách mời, điều được chú dì cậu bảo vệ kỹ lưỡng, là một điều khó hiểu. Mặc dù cậu đã một lần cắt từng ngón cái tít Pakistan từ báo ra - TỦ BAY GIẾT CHẾT PHÓ PHÁT NGÔN VIÊN ĐÔNG PAKISTAN - cậu chịu không biết vì sao, vào sáu giờ tối, một đoàn xe limousine màu đen chạy qua những bức tường có lính gác của Điền trang Zulfikar; vì sao cờ phấp phới trên nóc capô xe; vì sao người ngồi trên xe không một ai cười; hay vì sao Emerald và Pia và mẹ tôi đằng sau Đại tướng Zulfikar với vẻ mặt có lẽ thích hợp với đám ma hơn là một buổi giao tế xã hội. Ai cái gì đang chết? Ai vì sao đến trong những chiếc limousine? – Tôi chịu không có khái niệm gì; nhưng tôi đứng sẵn sàng sau lưng mẹ tôi và chăm chú nhìn những ô kính mờ trên từng chiếc xe bí hiểm.
[6] Có lẽ là Malik Ghulam Muhammad, Toàn quyền (Đại diện cho Nữ hoàng Anh) Pakistan từ năm 1951 đến 1956.
[7] Thủ tướng thứ tư, thứ năm, thứ sáu và thứ bảy của Pakistan trong giai đoạn 1955-1958.
Cửa xe mở ra; các nội hầu, sĩ quan phụ tá nhảy xuống xe và mở cửa sau, đứng nghiêm chào; một bắp cơ nhỏ bắt đầu giật trên má dì Emerald. Thế rồi, những ai từ những cỗ xe phấp phới cờ bước xuống? Những cái tên nào sẽ được gán cho một dãy hoành tráng những bộ ria, những gậy chỉ huy, những cặp mắt sắc lẹm, những huân chương và những sao vừa xuất hiện? Saleem chẳng biết tên cũng như số thứ tự; tuy nhiên, quân hàm là cái có thể nhận ra. Mề đay và sao, được đeo một cách kiêu hãnh trên ngực và vai, báo hiệu sự xuất hiện của các sếp lớn thứ thiệt. Và từ xe sau cùng bước ra một người đàn ông cao lớn có cái đầu tròn đáng kinh ngạc, tròn như quả địa cầu nhôm dù không kẻ các đường kinh và vĩ tuyến; có cái đầu tinh cầu, nhưng ông ta không được ghi địa danh như quả cầu con Khỉ từng giẫm bẹp; cũng không được SẢN XUẤT TẠI ANH (dù chắc chắn là được đào tạo tại Sandhurst[8], ông ta đi giữa những mề-đay-và-sao đang giơ tay chào; đến bên dì Emerald; và làm động tác chào tất cả.
[8] Học viện Quân sự Hoàng gia Anh.
“Ngài Tổng tư lệnh,” dì tôi nói, “hoan nghênh ngài đến tệ xá.”
“Emerald, Emerald,” cái miệng trên quả đầu hình trái đất lên tiếng – cái miệng nằm ngay dưới một hàng ria chỉn chu, “Sao phải khách sáo thế, takalluf thế?” Nghe vậy dì bèn chào đón ông ta với, “Nếu vậy, Ayub, hôm nay trông ngài thật tuyệt.”
Ông ta khi ấy là Đại tướng, tuy chức Thống chế không còn xa nữa… chúng tôi theo sau ông ta vào nhà; chúng tôi nhìn ông ta uống (nước) và cười (to); tại bàn ăn, chúng tôi lại quan sát ông ta, xem ông ta nốc như lực điền, khiến bộ ria nhoe nhoét rau quả dầm… “Nghe này, Em[9],” ông ta bảo, “Lần nào ta đến cũng thịnh soạn thế này! Nhưng ta chỉ là một anh lính bình thường; dal và cơm từ bếp nhà này đã là đại tiệc với ta rồi.”
[9] Cách gọi ngắn và thân mật tên Emerald.
“Một người lính, thưa ngài,” dì tôi đáp, “nhưng bình thường thì không! Không bao giờ!”
Quần dài cho tôi tư cách có mặt tại bàn ăn, cạnh ông em họ Zafar, vây quanh là mề-đay-và-sao; tuy nhiên, tuổi tác còn non nớt đặt chúng tôi vào thế buộc phải im lặng. (Đại tướng Zulfikar cho tôi một cú suỵt kiểu nhà binh, “Chỉ hó hé một tiếng là ta sẽ tống mày xuống nhà của lính gác. Muốn ngồi lại thì phải ngồi im. Rõ chưa?” Ngồi im như thóc, Zafar và tôi được nghe nhìn thoải mái. Nhưng Zafar, không giống tôi, sẽ không nỗ lực chứng tỏ mình đáng mặt con nhà…)
Bọn trẻ mười một tuổi nghe thấy gì trong bữa tối? Chúng hiểu gì từ những lời đề cập hớ hênh của giới nhà binh về “cha Suhrawardy đấy, luôn phản đối Ý Tưởng Pakistan” – hay về Noon, “lẽ ra thằng cha phải tên là Xế Chiều[10], hả?” Và thông qua những trao đổi về dàn xếp bầu cử và tiền bẩn, mối hiểm nguy tiềm ẩn nào đã ngấm vào da bọn trẻ, khiến lông tơ trên tay chúng dựng đứng lên? Và khi vị Tổng tư lệnh trích dẫn kinh Quran, bao nhiêu phần ý nghĩa lọt vào những đôi tai mười một tuổi?
[10] Noon trong tiếng Anh có nghĩa là buổi trưa.
“Kinh viết rằng,” người đàn ông đầu tròn hói, và đám mề-đay-và-sao im lặng. “Aad và Thamoud đều bị ta hủy diệt. Quỷ dữ đã khiến chúng nghĩ những hành vi lầm lạc của mình là đúng đắn, dẫu chúng là những kẻ tinh minh.”[11]
[11] Aad và Thamoud là hai bộ lạc Ả Rập thời cổ đại. Theo kinh Quran, Đức Allah đã giáng thiên tai hủy diệt hai bộ lạc này vì tội bất kính và mạo phạm.
Như thể một ám hiệu vừa được phát ra; một cái vẫy tay của dì tôi cho toàn bộ người hầu lui ra. Chính dì cũng đứng dậy rút lui; mẹ tôi và Pia nối gót. Zafar và tôi cũng đứng dậy; nhưng ông ta, chính ông ta, nói vọng qua chiều dài của chiếc bàn lộng lẫy: “Hai người đàn ông nhỏ tuổi nên ở lại. Nói cho cùng, đấy là tương lai của chúng.” Hai người đàn ông nhỏ tuổi, sợ hãi nhưng cũng tự hào, ngồi lại và im lặng, răm rắp tuân lệnh.
Chỉ còn lại đàn ông. Nét mặt của đầu tròn biến đổi; có gì đó đen tối hơn, có gì đó loang lổ và quyết liệt đã chiếm lĩnh nó… “Mười hai tháng trước,” ông ta nói, “ta nói chuyện với tất cả quý vị. Cho đám chính khách một năm - chẳng phải ta đã nói vậy ư?” Những cái gật đầu; những tiếng rì rầm tán thành. “Quý vị, ta đã cho họ một năm; tình hình đã đi đến chỗ không thể chịu đựng được; và ta không định chịu đựng thêm nữa!” Nhưng mề-đay-và-sao lấy bộ mặt nghiêm nghị, đầy vẻ kinh bang tế thế. Từng hàm răng nghiến lại, từng đôi mắt đau đáu nhìn vào tương lai. “Vì thế, tối nay,” - phải, tôi đã ở đó! Cách ông ta có vài mét - Đại tướng Ayub và tôi, tôi và Ayub Khan lão luyện! – “tôi sẽ giành quyền kiểm soát Đất nước.”
Những đứa trẻ mười một phản ứng thế nào trước một lời tuyên bố đảo chính? Nghe những lời, “… tình hình tài chính đất nước đang hỗn loạn khủng khiếp, tham nhũng và ô trọc ở khắp mọi nơi…”, hàm răng chúng có nghiến chặt? Ánh mắt chúng có chăm chú vào một ngày mai tươi sáng hơn? Những đứa trẻ mười một ngồi im nghe khi Đại tướng thốt lên, “Hiến pháp theo đây bị bãi bỏ! Các cơ quan lập pháp Trung ương và Địa phương bị giải tán! Các chính đảng ngay lập tức bị thủ tiêu!” – quý vị nghĩ chúng có cảm giác gì?
Khi Đại tướng Ayub Khan nói, “Lệnh Giới nghiêm bắt đầu có hiệu lực,” cả em họ tôi Zafar và tôi chợt hiểu rằng giọng ông ta – cái giọng chứa đầy quyền lực và sự quyết đoán và hương vị đậm đà của những món tủ của dì tôi – đang nói ra điều mà chúng tôi chỉ biết một từ để diễn tả: phản bội. Tôi tự hào nói là mình giữ được cái đầu lạnh; song Zafar không kiềm chế nổi một bộ phận khác khó xử hơn. Chất lỏng trào ra mặt trước quần nó; chất lỏng màu vàng của nỗi sợ hãi theo chân nó rỉ xuống làm ố tấm thảm Ba Tư; đám mề-đay-và-sao ngửi thấy gì đó, ngoảnh lại nhìn nó với ánh mắt miệt thị không giấu giếm; rồi (điều tệ hại nhất) phá lên cười.
Đại tướng Zulfikar chỉ vừa nói, “Nếu ngài cho phép, thưa ngài, tôi sẽ phác họa lộ trình hành động đêm nay,” thì ông con tè ra quần. Trong cơn thịnh nộ lạnh lùng chú tôi lẳng thằng con ra ngoài; “Ma cô! Đàn bà!” bám theo Zafar ra khỏi phòng ăn, trong giọng nói mỏng sắc của bố nó; “Đồ hèn! Lại cái! Hindu!” vọt ra từ khuôn mặt Punchinello và đuổi theo thằng bé lên cầu thang… Ánh mắt Zulfikar dừng lại ở tôi. Từ chúng toát ra một vẻ cầu khẩn. Hãy cứu lấy danh dự của gia đình ta. Lấy lại thể diện cho ta sau việc thằng ranh kia không nín nổi. “Này, nhóc!” chú tôi nói, “Cháu muốn lên đây giúp ta không?”
Tất nhiên, tôi gật đầu. Chứng tỏ sự nam tính, sự đáng mặt làm con của mình, tôi trợ giúp chú tôi trong khi ông thực hiện cuộc cách mạng. Và bằng cách đó, bằng cách giành được lòng biết ơn của ông, bằng cách làm lặng đi tiếng cười khùng khục của hội mề-đay-và-sao, tôi đã tạo cho mình một người cha mới; Đại tướng Zulfikar trở thành cái tên mới nhất trong hàng ngũ những người sẵn lòng gọi tôi là “anh cu”, hay “cậu cả”, hay chỉ đơn giản là “con trai ta”.
Chúng tôi tiến hành cách mạng ra sao: Đại tướng Zulfikar mô tả kế sách hành binh; tôi di chuyển các lọ gia vị để minh họa khi ông nói. Dưới sự kiểm soát của chế độ liên kết chủ động-nghĩa bóng, tôi di chuyển những lọ muối và bát chutney: Bình mù tạc này là Đại đội A trấn giữ Bưu Điện Trung Tâm; hai lọ gia vị bao vây một cái muỗng nhỏ, tức là Đại đội O đã chiếm sân bay. Nắm vận mệnh đất nước trong tay, tôi dịch chuyển mắm muối và dao dĩa; bắt giữ những đĩa biriani[12] hết bằng mấy cốc nước; giao những lọ muối đồn trú, vả sẵn sàng tác chiến, quanh mấy bình nước. Và khi Đại tướng Zulfikar dứt lời, cuộc hành quân của bộ đồ ăn cũng đến hồi kết thúc. Ayub Khan dường như đã an ổn trên ghế; có phải cái nháy mắt của ông ta với tôi là do tôi tưởng tượng ra? – dù gì đi nữa, vị Tổng Tư lệnh nói, “Tốt lắm, Zulfikar; màn trình diễn được đấy.”
[12] Một kiểu cơm rang trộn nhiều gia vị của Ấn Độ.
Suốt những nước đi do lọ gia vị và vân vân thực hiện, có một vật trang trí trên bàn không được bắt giữ: một bình kem bằng bạc nguyên chất, mà, trong vụ đảo chính trên bàn của chúng tôi, tượng trưng cho Nguyên thủ quốc gia, Tổng thống Iskander Mirza; trong ba tuần, Mirza vẫn là Tổng thống.
Một đứa trẻ mười một tuổi chẳng thể phán xét một Tổng thống có thực sự thối nát hay không, kể cả khi mề-đay-và-sao bảo thế; mười một không phải tuổi để đánh giá liệu mối liên hệ của Mirza với đảng Cộng hòa nhược tiểu có đáng khiến ông ta mất chức dưới chế độ mới không. Saleem Sinai không đưa ra phán xét chính trị; nhưng khi, chỉ có thể vào nửa đêm, ngày 1 tháng Mười một, chú tôi lay tôi dậy và thì thào, “Đi nào, con trai, đã tới lúc con nếm mùi thực tế rồi!”, tôi mau lẹ nhảy khỏi giường; tôi mặc đồ và ra đi trong đêm tối, tự hào ý thức rằng chú tôi ưng được tôi tháp tùng hơn chính con trai ông.
Nửa đêm. Rawalpindi chạy ngược chiều chúng tôi ở tốc độ bảy mươi dặm một giờ. Phía trước hai bên phía sau chúng tôi đều có mô tô. “Mình đang đi đâu hở chú Zulfy?” Cứ chờ xem. Chiếc limousine đen cửa kính mờ dừng lại trước một ngôi nhà tối tăm. Quân cảnh gác cổng bồng súng đan chéo; chúng mở ra, nhường đường cho chúng tôi. Tôi đi, đều bước, bên cạnh chú tôi, qua những hành lang tranh tối tranh sáng; đến khi xông vào một căn phòng tối, nơi một quầng sáng từ vầng trăng soi tỏ chiếc giường bốn cột. Một chiếc màn rủ xuống giường như vải liệm.
Một người đàn ông tỉnh giấc, hốt hoảng, cái quái gì thế này… Nhưng Đại tướng Zulfikar rút ra một khẩu colt nòng dài; nòng súng bị tống vào ư ư giữa hàm răng bị tách ra của người nọ. “Câm mồm,” chú tôi nói, một cách thừa thãi. Người đàn ông trần truồng to béo lẩy bẩy bước xuống giường. Đôi mắt, dò hỏi: Ngươi sẽ bắn ta chứ? Mồ hôi lăn xuống cái bụng phệ, phản chiếu ánh trăng, rồi rỏ xuống soo-soo của ông ta; nhưng nó lạnh toát; ông ta không toát mồ hôi vì nực. Ông ta trông như một Ông Phật Cười trắng bệch; nhưng không cười. Mà run. Khẩu súng được rút khỏi miệng ông ta. “Đằng sau quay. Đi đều bước!”… Và nòng súng lại gí vào giữa hai gò cặp mông béo múp. Người đàn ông rú lên, “Vì Chúa, hãy cẩn thận; cái đó đã mở chốt an toàn rồi!” Đám jawan cười rúc rích khi da thịt lõa lồ bước ra dưới ánh trăng, bị đẩy vào chiếc limousine đen. Đêm đó tôi ngồi cạnh một người đàn ông trần truồng trong khi chú tôi đưa ông ta đến một sân bay quân sự; tôi đứng nhìn chiếc máy bay đợi ông ta lướt trên đường băng, tăng tốc, bay đi. Điều bắt đầu, một cách chủ động-nghĩa bóng, với lọ gia vị, giờ đã kết thúc; tôi không chỉ lật đổ một chính quyền – mà còn đẩy một vị tổng thống vào cảnh lưu đày.
Nửa đêm có nhiều con; nhưng không phải mọi hậu duệ của Độc lập đều là con người. Bạo lực, tham nhũng, nghèo đói, tướng lĩnh, hỗn loạn, lòng tham và lọ gia vị… tôi phải dấn bước lưu đày mới hiểu rằng những đứa con của nửa đêm đa dạng hơn là tôi - kể cả tôi từng mơ tới.
“Đúng thế thật à?” Padma hỏi. “Ông ở đấy thật à?” Đúng thế thật mà. “Người ta bảo Ayub là người tốt trước khi tha hóa,” Padma nói; đây là một câu hỏi. Nhưng Saleem, mới mười một, không phán xét mấy chuyện này. Cuộc hành binh của lọ gia vị không đòi hỏi ở tôi những lựa chọn đạo đức. Điều Saleem quan tâm: không phải biến động xã hội, mà là sự tái hòa nhập của cá nhân. Quý vị thấy nghịch lý không – cú đột kích trí mạng nhất của tôi vào lịch sử đến thời điểm này lại khởi phát từ một động cơ thuộc loại hẹp hòi nhất. Dù sao, đó cũng không phải đất nước tôi – hay hồi đó thì chưa. Không phải đất nước tôi, mặc dù tôi sống ở đây – như kẻ tị nạn, không phải công dân; nhập cảnh bằng hộ chiếu Ấn Độ của mẹ tôi, đáng lẽ tôi đã gặp phải không ít hoài nghi, thậm chí bị trục xuất hoặc bắt giữ vì làm gián điệp, nếu không nhờ tôi còn thơ ấu và nhờ thế lực của người giám hộ có gương mặt như Punch[13] của tôi - suốt bốn năm ròng rã.
[13] Punch vừa là cách viết tắt của Punchinello, vừa có nghĩa là cú đấm. Gương mặt như Punch bởi vậy còn hàm ý là mặt như bị đấm (khiến cái mũi cụp hẳn vào sát miệng).
Bốn năm vô nghĩa.
Trừ việc trở thành một thiếu niên. Trừ việc chứng kiến mẹ tôi tan rã. Trừ việc quan sát con Khỉ, kém tôi một tuổi có tính quyết định, ăn phải thứ bùa mê âm độc của cái xứ sở bị Chúa thống trị ấy; con Khỉ, một thời từng hoang dại và bất trị, nay có những biểu hiện của sự nhu thuận và phục tùng mà, ban đầu, chắc hẳn chính nó cũng cảm thấy giả dối; con Khỉ, học nấu ăn và tề gia nội trợ, cách mua gia vị ngoài chợ; con Khỉ, đoạn tuyệt hoàn toàn với di sản của ông ngoại nó, bằng cách học kinh tiếng Ả Rập và cầu nguyện vào mọi lúc theo quy định; con Khỉ, phơi bày chất cuồng tín thanh giáo mà ngày trước nó đã hé lộ khi xin bộ đồ nữ tu; nó, người hắt hủi mọi lời giải bày tình yêu trần tục, bị quyến rũ bởi tình yêu của một Đức Chúa mang tên bức phù điêu trong một đền thờ dị giáo được xây dựng quanh một khối thiên thạch khổng lồ: Al-Lah, trong Qa’aba, đền thờ Tảng Đá Đen vĩ đại[14].
[14] Tại đất thánh Mecca, trong Thánh đường Masjid al-Haram có một đền thờ hình khối lập phương (Qa’aba). Theo kinh sách, khối đá đen được chính Muhammad ốp vào góc tường phía Đông của đền thờ này. Saleem tin theo thuyết cho rằng trước khi đạo Hồi ra đời, khối đá này từng là linh vật của các tín đồ dị giáo (tức là đa thần giáo). Bản thân tên Chúa Trời trong đạo Hồi (Allah) cũng là tên được người Mecca thời đó gọi vị thần Sáng Tạo trong tôn giáo của họ.
Nhưng chỉ thế mà thôi.
Bốn năm xa cách lũ trẻ nửa đêm; bốn năm không có đường Warden và Breach Candy và Scandal Point và sự cám dỗ của Sô Cô La Dài Cả Mét; xa trường Cathedral và bức tượng Sivaji kỵ mã và những người bán dưa hấu gần Cổng vòm Ấn Độ; xa Divali và Ganesh Chaturthi và Ngày Dừa; bốn năm cách biệt người cha ở một mình trong căn nhà ông không chịu bán; một mình, chỉ có Giáo sư Schaapsteker, ở căn hộ trên gác và từ chối tiếp xúc với con người, làm bầu bạn.
Chả lẽ suốt bốn năm không có chuyện gì xảy ra? Tất nhiên, không hẳn thế. Em họ tôi, Zafar, người không bao giờ được cha tha thứ vì đái dầm khi có sự hiện diện của lịch sử, buộc phải chấp nhận rằng nó sẽ nhập ngũ ngay khi đến tuổi. “Ta muốn thấy mày chứng tỏ mày không phải là đàn bà,” ông bố bảo nó.
Và Bonzo chết; Đại tướng Zulfikar nhỏ dòng lệ nam nhi.
Và lời thú nhận của Mary phai mờ dần cho đến khi, bởi không ai nhắc đến, nó thành ra như một cơn ác mộng; đối với tất cả trừ tôi.
Và (không hề có sự trợ giúp nào từ tôi) quan hệ giữa Ấn Độ và Pakistan ngày một xấu đi; hoàn toàn không được tôi hỗ trợ, Ấn Độ chiếm đóng Goa – “cái nhọt Bồ Đào Nha trên mặt Mẹ Ấn Độ”; tôi ngồi ngoài và không đóng vai trò nào trong việc Pakistan giành được viện trợ quy mô lớn từ Mỹ, tôi cũng không có lỗi trong những vụ giao tranh lẻ tẻ trên biên giới Trung -Ấn ở vùng Aksai Chin thuộc Ladakh[15]; cuộc điều tra dân số Ấn Độ năm 1961 cho thấy tỷ lệ biết chữ là 23,7%, nhưng tôi không có tên trong báo cáo thống kê. Vấn đề tiện dân tiếp tục nhức nhối; tôi không làm gì để giảm bớt nó; và trong cuộc bầu cử năm 1962, đảng Quốc đại Toàn Ấn Độ giành 361 trên 494 ghế trong Lok Sabha, và hơn 61% số ghế tại Hội đồng Lập pháp. Cả trong việc này cũng không thể nói bàn tay vô hình của tôi đã cử động; trừ, có lẽ, theo nghĩa bóng: status quo[16]vẫn được duy trì ở Ấn Độ; trong đời tôi, cũng không có gì thay đổi.
[15] Bang nằm ở tận cùng phía Bắc Ấn Độ.
[16] Tiếng Latin, có nghĩa là nguyên trạng.
Thế rồi, vào 1 tháng Chín năm 1962, chúng tôi kỷ niệm sinh nhật lần thứ mười bốn của con Khỉ Đồng. Lúc này (và mặc dầu ông chú tiếp tục ưu ái tôi) chúng tôi đã được ấn định là thành phần xã hội thấp kém, những bà con nghèo bất hạnh của nhà Zulfikar danh giá; bởi vậy bữa tiệc khá tằn tiện. Con Khỉ, tuy vậy, vẫn thể hiện mọi diện mạo tươi vui. “Đó là bổn phận của em, anh ạ,” nó bảo. Tôi cơ hồ không tin nổi tai mình. Nhưng có lẽ em tôi có linh cảm về số phận của nó; có lẽ nó biết về sự biến hóa đang chờ đợi mình; sao tôi có thể nghĩ rằng chỉ mình có quyền năng tiên tri?
Có lẽ, lúc ấy, nó đoán biết rằng khi đội nhạc công được thuê bắt đầu trình diễn (có shehnai và vina; rồi sẽ tới lượt sarangi và sarod; tabla và sitar[17] diễn tấu màn vấn đáp điêu luyện của mình), Emerald Zulfikar sẽ bất ngờ tập kích nó với vẻ tao nhã tàn nhẫn, yêu cầu, “Coi nào, Jamila, đừng ngồi như quả dưa thế chứ, hát cho chúng ta nghe như một nàng khuê nữ đích thực xem nào!”
[17] Những nhạc cụ cổ truyền của Ấn Độ.
Và rằng với câu nói này bà dì băng lãnh như ngọc[18] của tôi sẽ bắt đầu, một cách vô tình, quá trình em tôi hóa thân từ khỉ thành ca sĩ; bởi vì mặc dù nó phản đối với nết vụng về phụng phịu của tuổi mười bốn, nó vẫn bị bà dì áp đặt của tôi không nể nang gì lôi xềnh xệch lên bục dành cho ban nhạc; và mặc dù trông nó như đang ước ao sàn nhà bỗng nhiên nứt ra dưới chân mình, nó vẫn chắp tay lại; thấy rằng không còn lối thoát, con Khỉ bắt đầu hát.
[18] Nguyên văn: emerald-icy. Rushdie chơi chữ, vì Emerald có nghĩa là ngọc lục bảo.
Tôi là người không giỏi miêu tả cảm xúc, tôi nghĩ vậy - bởi tin rằng khán giả của tôi có khả năng tham gia vào câu chuyện; tự mình hình dung ra những gì tôi không thể tái hình dung, để câu chuyện của tôi cũng là của quý vị… nhưng khi em tôi cất lên tiếng hát, tôi bị dồn dập dưới một cảm xúc mãnh liệt đến nỗi tôi không thể hiểu nổi cho tới khi, mãi về sau, tôi được người gái điếm già nhất thế gian điểm hóa cho. Bởi vì, ngay từ nốt nhạc đầu tiên, Con Khỉ Đồng đã trút bỏ cái biệt danh của nó; nó, người từng trò chuyện với chim (giống như, lâu rồi, giữa một thung lũng miền sơn cước, cụ ngoại nó từng làm), hẳn đã học được nghệ thuật ca hát từ những loài chim biết hót. Bằng một tai lành và một tai điếc, tôi lắng nghe giọng hát không tỳ vết cuả nó, mà ở tuổi mười bốn đã là giọng của một người đàn bà thành thục, ngập tràn sự thuần khiết của đôi cánh thiên thần và nỗi đau của phận lưu đày và vẻ cao bay của đại bàng và sự vô tình của nhân sinh và giai điệu của họa mi và sự hiện hữu muôn nơi đầy vinh quang của Chúa; giọng hát sau này được ví với Bilal, người muezzin[19] của Mahammad, phát ra từ đôi môi một thiếu nữ có phần hơi gầy guộc.
[19] Muezzin là người được chọn đứng trên tháp của thánh đường để cất tiếng gọi mọi tín đồ cầu nguyện. Bilal al-Habashi được xem là muezzin đầu tiên, do chính Muhammad đích thân lựa chọn. Bilal nổi tiếng là có chất giọng rất đẹp.
Điều tôi không hiểu sẽ phải chờ tới lượt để được kể; giờ tôi xin ghi lại rằng em tôi đã làm nên tên tuổi ở bữa tiệc sinh nhật thứ mười bốn của mình, và từ đó được gọi là Jamila Ca sĩ; và tôi, khi nghe “Tấm Dupatta Muslin Đỏ Của Em” và “Shahbaz Qalandar”[20], hiểu ra rằng quá trình bắt đầu từ cuộc lưu đày thứ nhất của tôi sắp sửa hoàn thành trong lần đày ải thứ hai; rằng, từ giờ trở đi, Jamila mới là đứa trẻ quan trọng, và rằng tôi phải mãi mãi đứng thứ hai sau tài năng của nó.
[20] Shahbaz Qalandar là một ẩn giả tu tập theo phái thần bí sống vào thế kỷ 13, có ảnh hưởng lớn về tôn giáo cả với đạo Hồi lẫn Hindu. Ông thường mặc trang phục đỏ (lưu ý: hai bài hát đều liên hệ đến màu đỏ).
Jamila hát – tôi, khiêm nhường, cúi đầu. Nhưng trước khi em có thể bước trọn vẹn vào vương quốc của mình, một điều nữa sẽ phải xảy ra: tôi phải bị kết liễu một cách triệt để.
Chương 21: Hút kiệt và hoang mạc
Thứ-gặm-mòn-xương dứt khoát không dừng lại… chỉ còn là vấn đề thời gian. Đây là điều giúp tôi chi trì: tôi bám víu vào Padma. Padma là điều quan trọng – cơ bắp của Padma, cánh tay lông lá của Padma, Padma bông sen thanh khiết của tôi… người, bối rối, ra lệnh: “Đủ rồi. Bắt đầu. Bắt đầu đi.”
Phải, cần phải bắt đầu từ bức điện tín. Viễn cảm cho tôi đứng trên người khác; viễn thông lại kéo tôi xuống…
Ngày xửa ngày xưa, Amina Sinai đang gọt mụn cóc ở chân thì bức điện đến… Không, như thế không được, không thể né tránh ngày tháng được: mẹ tôi, bàn chân phải gác trên đầu gối trái, đang nạo những nốt chai trên gan bàn chân bằng một cái giũa nhọn đầu vào ngày 9 tháng Chín năm 1962. Thế còn giờ? Giờ cũng quan trọng. À, vậy thì: vào buổi chiều. Không, phải cụ thể hơn… Khi đồng hồ điểm ba giờ, tức là, mặc dù ở phương Bắc, thời điểm nóng nhất trong ngày, người hầu đem cho bà một tấm phong bì đặt trên đĩa bạc. Vài giây sau, ở tít New Delhi, Bộ trưởng Quốc phòng Krishna Menon (tự mình chủ xướng, trong khi Nehru đi vắng để tham dự Hội nghị các Thủ tướng thuộc khối Thịnh vượng chung) đưa ra quyết định trọng đại nếu cần thiết sẽ dùng vũ lực với quân đội Trung Quốc ở vùng biên giới trên dãy Himalaya. “Quân Trung Quốc phải bị đánh bật khỏi Triền Thag La,” ông Menon nói vào thời điểm mẹ tôi xé phong bì. “Không được phép tỏ ra khiếp nhược.” Nhưng quyết định này chỉ là chuyện vặt khi đặt cạnh hệ quả mà bức điện của mẹ tôi mang lại; vì trong khi cuộc hành quân trục xuất kẻ thù, mật danh LEGHORN, được chú định sẽ thất bại, và cuối cùng sẽ biến Ấn Độ thành một kịch trường chết chóc nhất, Kịch trường Chiến tranh, bức điện sẽ ném tôi, một cách âm thầm nhưng đích xác, đến với biến cố sẽ kết thúc với việc tôi bị trục xuất vĩnh viễn khỏi cái thế giới bên trong tôi. Trong khi quân đoàn Ấn Độ XXXIII đang hành động theo chỉ đạo của Menon được truyền đạt đến Đại tướng Thapar, tôi cũng bị đặt vào một tình thế hiểm nghèo; như thể những sức mạnh vô hình đã kết luận tôi đã vượt quá giới hạn những gì tôi được phép làm hoặc biết hoặc là; như thể lịch sử đã quyết định đặt tôi chắc chắn ở vị trí của mình. Tôi hoàn toàn không được có ý kiến gì trong việc này; mẹ tôi đọc bức điện, bật khóc và nói, “Các con, ta về nhà thôi.”…và sau đó, như tôi đã nói khi bắt đầu câu chuyện trong một bối cảnh khác, chỉ còn là vấn đề thời gian.
Bức điện viết: XIN VỀ NGAY SINAI SAHIB BỊ BỤP TIM ỐM NẶNG LẮM SALAAMS ALICE PEREIRA.
“Tất nhiên là phải về ngay, chị thân yêu,” dì Emerald bảo bà chị, “Có điều, cái bụp tim này, lạy Chúa, là gì không biết?”
Có khả năng, thậm chí có nhiều khả năng, tôi mới là sử gia đầu tiên ghi lại câu chuyện về cuộc-đời-và-thời-đại ly kỳ không chối cãi được của mình. Người nào nối gót tôi, dù sao đi nữa, tất yếu sẽ phải đến với tài liệu này, cuốn cẩm nang này, cuốn Hadith hay Purana hay Grundrisse[1]này, để tìm hướng đi và cảm hứng. Tôi khuyên những nhà luận giải kinh điển tương lai rằng: khi nghiên cứu những sự kiện xảy ra tiếp sau “Bức điện bụp tim”, hãy nhớ rằng ở chính giữa tâm cơn bão đổ xuống đầu tôi – hay dùng một ẩn dụ khác, lưỡi kiếm đã đánh ra đòn sát thủ với tôi – là một sức mạnh hội tụ duy nhất. Tôi muốn nói đến viễn thông.
[1] Hadith là tập hợp những cuốn sách về những tập quán và truyền kỳ về Muhammad và các tông đồ, được xem như tài liệu cơ bản của Hồi luật. Purana là tập hợp các Phạn văn không thuộc kinh Vệ Đà, giải thích về sự sinh diệt của vũ trụ và sự tích các thần trong đạo Hindu. Grundrisse là cách gọi tắt Grundrisse der Kritik der Politischen Ökonomie (Đại cương Phê phán Kinh tế Chính trị), một bản thảo có ý nghĩa rất quan trọng trong các trước tác của Karl Marx.
Điện tín, và sau điện tín, tới điện thoại, là tác nhân hủy hoại tôi; tuy nhiên, với sự độ lượng, tôi sẽ không kết ai vào tội âm mưu; mặc dù dư luận sẽ dễ tin rằng giới nắm quyền kiểm soát truyền thông đã quyết tâm giành lại vị thế độc quyền đối với sóng thông tin trên toàn quốc… Tôi phải quay về (Padma đang cau mày) với chuỗi sự kiện tầm thường của nguyên-nhân-và-hệ-quả: chúng tôi đến sân bay Santa Cruz trên một chiếc Dakota, vào 16 tháng Chín; nhưng để giải thích về bức điện, tôi phải đi xa hơn ngược chiều thời gian.
Nếu Alice Pereira đã một lần phạm tội, khi đánh cắp Joseph D’Costa của Mary chị cô, thì những năm sau này, cô đã đi được một chặng dài trên con đường chuộc tội; bởi suốt bốn năm qua cô là người duy nhất bầu bạn với Ahmed Sinai. Sống biệt lập trên quả đồi phủ bụi một thời từng là Điền trang Methwold, thiên tính hay giúp đỡ của cô phải đáp ứng những đòi hỏi nặng nề. Ông sẽ bắt cô ngồi với ông đến nửa đêm trong khi ông nốc tửu tinh và lèm bèm về những bất công trong đời mình; ông nhớ ra, sau nhiều năm quên lãng, giấc mơ cũ về những bất công trong đời mình; ông nhớ ra, sau nhiều năm quên lãng, giấc mơ cũ về dịch và sắp xếp lại kinh Quran, và đổ lỗi cho gia đình đã làm ông suy nhược tới mức không còn đủ tinh lực để bắt đầu một sứ mệnh tầm cỡ ấy; ngoài ra, vì có cô ở đó, cơn giận của ông thường nhắm vào cô, dưới hình thức một tràng dài những lời chửi bới tục tằn và rủa xả vô dụng được ông chế ra trong những ngày chìm đắm vào nỗi quên đời. Cô nỗ lực thông cảm với ông: ông cô đơn, mối quan hệ từng là không thể thất bại của ông với điện thoại nay đã bị hủy hoại sau những biến động kinh tế của thời kỳ này; sự nhạy bén trong vấn đề tài chính cũng bắt đầu từ bỏ ông… và cả ông cũng trở thành con mồi của những nỗi sợ kỳ quái. Khi con đường do Trung Quốc xây ở vùng Aksai Chin bị phát hiện, ông bắt đầu tin rằng việc bọn mọi da vàng đến Điền trang Methwold chỉ là chuyện sớm chiều; và chính Alice đã phải trấn an ông bằng Coca-Cola ướp đá, và bảo, “Có gì mà sợ. Bọn Khựa ấy bé tí, đánh sao nổi jawan của chúng ta. Cứ yên tâm mà uống Coca của ông đi; sẽ chẳng có gì xảy ra đâu.”
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian